Mộ Đỗ Thúc Tịnh là một di tích lịch sử cấp quốc gia ở Đà Nẵng, gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Đỗ Thúc Tịnh, một quan chức, nhà yêu nước tiêu biểu thời Tự Đức
1. Vị trí:
2. Tiểu sử Đỗ Thúc Tịnh:
Ông Đỗ Thúc Tịnh tự là Cấn Trai, húy là Như Chương, sinh ngày 16 tháng giêng năm Mậu Dần (tức ngày 20-2-1818), mất ngày 26 tháng giêng năm Nhâm Tuất (1862). Sinh thời, Đỗ Thúc Tịnh là người thông minh, ham học, hết mực hiếu thuận nên được bà con xóm làng khen ngợi, yêu mến. Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), Đỗ Thúc Tịnh đỗ cử nhân khoa Bính Ngọ. Hai năm sau, năm 1848, khi Tự Đức mới lên ngôi, mở khoa thi đặc biệt gọi là Ân khoa, ông đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ, đứng hàng thứ tư, là vị tiến sĩ đầu tiên của huyện Hòa Vang lúc bấy giờ. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), ông được bổ làm tri phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nhưng chỉ một thời gian ngắn ông phải xin về quê phụng dưỡng mẹ già đang ốm nặng. Gia phả họ Đỗ ghi lại: “suốt ngày, ông quanh quẩn dưới gối, chẳng muốn xa lìa mẹ một phút”. Không lâu sau, năm 1851, mẹ ông qua đời. Theo lễ giáo phong kiến, ông ở nhà thọ tang mẹ 3 năm.
Năm Tự Đức thứ 6 (1853) ông lại được gọi ra, bổ làm tri phủ huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Chính lúc này, Đỗ Thúc Tịnh mới có dịp thi thố sở học và biểu lộ phẩm cách của một công bộc với dân. Khi ông về chấp chính ở Diên Khánh, nhân dân ở đây đang gặp rất nhiều khó khăn, đói kém, bệnh tật, nạn cướp bóc luôn hoành hành. Ông tìm cách an ủi nhân dân, cấp thuốc men cho người bệnh tật, phân phát gạo cho người nghèo khó; đối với bọn cướp, ông một mặt khuyên dụ, thu phục, mặt khác tạo cho chúng công ăn việc làm để hoàn lương. Nhưng đó mới chỉ là việc làm trước mắt. Để tạo cho nhân dân có được cuộc sống no ấm lâu dài, ông lo sửa chữa đường sá, vận động nhân dân khai khẩn đất hoang, đẩy mạnh sản xuất, khai thôn mở ấp, mở mang chợ búa để thúc đẩy giao thương. Nhờ vậy Diên Khánh có thêm 242 mẫu ruộng, 960 gia đình được an cư lạc nghiệp, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Ông được nhân dân yêu mến và kính trọng gọi là “Đỗ Phụ”.
Tài năng và công trạng của ông nhanh chóng được triều đình biết đến nên chỉ một năm sau, năm Tự Đức thứ 7 (1854), ông được vua hạ chỉ gọi về kinh làm giám sát ngự sử, nhưng nhân dân Diên Khánh và quan tỉnh thần địa phương làm đơn gởi về triều xin cho ông ở lại. Năm 1859, thực dân Pháp chiếm thành Gia Định, hai năm sau đánh chiếm Định Tường. Trong lúc tại triều đình có người vì lo sợ đã chủ hòa, Đỗ Thúc Tịnh dâng sớ xin Tự Đức cho vào Nam cùng quân dân chống giặc Pháp xâm lược, cứu nước. Ông được Tự Đức khen ngợi là người có nghĩa khí, cho sung Khâm phái quân vụ, lĩnh Tuần phủ Định Tường. Trong khi đang cùng với quan quân tập trung sức lo việc đánh đuổi giặc Pháp, lo chuyện thu hồi các tỉnh miền Đông thì ông lâm bệnh và mất tại Vĩnh Long ở tuổi 45.
3. Ý nghĩa và tầm quan trọng của di tích:
Mộ Đỗ Thúc Tịnh không chỉ là nơi an nghỉ của một nhân vật quan trọng trong lịch sử Việt Nam, mà còn là một biểu tượng của tinh thần yêu nước và sự hy sinh vì dân tộc. Đây là nơi để thế hệ sau tưởng nhớ và học hỏi từ những tấm gương người đi trước.
4. Hiện trạng và bảo tồn:
Nguồn : Sưu tầm